Thứ Ba, 1 tháng 3, 2016

Đằng sau sự phát triển của Apple (phần 2)

Tiếp phần 1: Cách Apple đã làm để giải quyết vấn đề:

Tháng 7/1997 Apple mời Steve Jobs quay lại. Ông đã đưa ra nhiều quyết định mang tính chiến lược để vực dậy công ty này.

Văn hóa:

Khi thành lập Apple, Steven Job đã xây dựng một văn hóa cho công ty mà khi ông trở lại, ông đã một lần nữa khơi dậy và phát triển nó mạnh mẽ.

Có thể thấy,tôn trọng chính là một yếu tố nằm trong văn hóa của Apple. Họ không giới hạn bất kỳ ý tưởng nào của nhân viên.Đôi khi những ý tưởng táo bạo hay ho lại bắt nguồn từ những suy nghĩ điên rồ, tưởng chừng như không thể thực hiện được. Vì thế, đối với Apple, ý tưởng không bao giờ có giới hạn, Steven Job luôn khuyến khích nhân viên tranh luận về các ý tưởng và tạo ra một sự tin tưởng trong nhân viên, tạo động lực cho nhân viên thoải mái đóng góp ý kiến, không bao giờ chê bai các ý tưởng của họ.

Một yếu tố nữa không thể không nhắc đến đó chính là văn hóa " Truy tìm sự hoàn hảo".Chính điều này đã làm cho những sản phẩm của Apple hoàn mỹ đến từng chi tiết. Từ khi sản xuất cho đến khi xuất hiện trên thị trường, một quá trình sửa chữa, kiểm tra nghiêm ngặt để sản phẩm không có bất kì một sai sót nào. Điều này có thể là do ảnh hưởng từ tính cách cầu toàn của nhà lãnh đạo tài ba Steven Job, ông luôn là người hướng tầm nhìn đến những điểm hoàn hảo nhất.

Sản phẩm:

Thành công chính của Apple xoay quanh việc liên tục cải tiến và cho ra sản phẩm mới. Vì hơn hết, là một công ty trong thị trường công nghiệp điện tử thì Apple hiểu rõ rằng sự cải tiến sản phẩm là yếu tố quan trọng quyết định thành bại của họ.

Thứ nhất về cơ bản ý tưởng của Apple về sản phẩm là: để thống trị một dòng sản phẩm thì cách tốt nhất là trở thành người đầu tiên tạo ra nó. Thứ hai, như Steve Jobs từng nói “nếu bạn không loại bỏ sản phẩm của bạn thì người khác sẽ thay bạn làm điều đó”. Vì thế, Apple liên tục cho ra các thế hệ sản phẩm thông minh mới như Iphone, Ipad… hay các trung tâm ứng dụng như App Store... “One more thing”, câu nói Steve Jobs dùng để kết thúc bài giới thiệu sản phẩm cho thấy hàm ý Apple không dừng lại ở đó, và cái hay cái hấp dẫn vẫn còn ở đằng sau.

Giá, phân phối, truyền thông

Giá: Apple luôn định giá các sản phẩm của mình cao hơn so với các đối thủ cạnh tranh tạo nên khác biệt và góp phần thể hiện đẳng cấp vượt trội cũng như nâng cao giá trị sản phẩm khiến cho người tiêu dùng chú ý, thu hút và trả thêm tiền cho Apple.
Phân Phối: Điểm đáng chú ý trong chính sách phân phối của Apple là chuỗi cửa hàng Apple. 

Những cửa hàng độc đáo này đã nâng cao thương hiệu, giúp Apple dễ dàng kiểm soát hơn việc giới thiệu sản phẩm và những trải nghiệm của khách hàng. Chính nhờ vào suy nghĩ luôn muốn tìm cách đổi mới trong trải nghiệm phục vụ khách hàng mà mô hình Apple Store được hình thành và là một thành công rất lớn, tăng trưởng nhanh hơn bất kỳ nhà bán lẻ nào trong lịch sử.


Truyền thông:Apple sở hữu lượng “fan cuồng” đáng kể ở khắp nơi trên thế giới, họ sẵn sàng đợi hàng giờ trước cửa hàng Apple cả tuần lễ chỉ để trở thành người đầu tiên mua được chiếc iPhone mới nhất. VậyApple làm điều đó như thế nào? Để truyền tải được cảm hứng và những ý tưởng tuyệt vời của sản phẩm Apple không thể không nhắc đến công lao của Steve Jobs. 

Các bài diễn thuyết của ông đều được chuẩn bị kỹ lưỡng, không đơn giản chỉ là thuyết trình về sản phẩm, ông còn truyền đạt, giảng giải, truyền cảm hứng và giải trí cho mọi người. Bên cạnh đó Guy Kawasaki, chuyên gia chịu trách nhiệm quảng bá thương hiệu cho Apple, đã sáng tạo ra thuật ngữ “Evangelism Marketing” (Marketing Truyền giáo) để chỉ cách mà doanh nghiệp biến khách hàng thành những sứ giá tuyên truyền miễn phí cho sản phẩm. 

Theo Guy, Evangelism Marketing nằm ở một mức độ cao hơn cả Word-of-Mouth Marketing (Marketing Truyền miệng). Apple nhận thức được rằng khách hàng chính là đội ngũ tuyên truyền hiệu quả nhất cho sản phẩm của mình. Chính những kinh nghiệm về sản phẩm của họ sẽ là nguồn quảng cáo hiệu quả, chính xác và nhanh chóng nhất để sản phẩm được biết đến rộng rãi.

Mời các bạn theo dõi tiếp phần ba: Đằng sau sự phát triển của Apple (phần 3)

Chủ Nhật, 28 tháng 2, 2016

Đằng sau sự phát triển của Apple (phần 1)

Giới thiệu công ty Apple :

Từ một công ty nhỏ được sáng lập bởi Steve Jobs và Steve Wozinak, Apple hiện là công ty có giá trị vốn hóa thị trường lớn nhất thế giới, nhưng hơn cả, mô hình quản lý của công ty này đã trở thành hình mẫu được nhiều tập đoàn, doanh nghiệp khác "noi gương.

Giờ đây, khi Apple đã trưởng thành và sẵn sàng cho một kỉ nguyên mới “hậu Jobs”, người ta bắt đầu nhìn nhận lại chặng đường mà hãng đã đi qua dưới sự chèo lái của nhà sáng lập. Trên chặng đường này, Steve Jobs đã ghi nhiều dấu ấn – những bài học không chỉ cho các đồng nghiệp mà còn cho cả những đối thủ của ông.

Tình huống, vấn đề mà công ty Apple gặp phải :

Trong thời kì lịch sử của Apple có một giai đoạn Apple  rơi vào tình trạng khủng hoảng khi Steven Jobs bị thay thế phủ phàng bởi Jonh Sculley. Hơn 95% khách hàng của Apple  chuyển sang mua sản phẩm tương thích của IBM, sản phẩm của Apple phủ đầy bụi trên các kệ hàng, Apple dần thay thế Jonh thành Michael, rồi Gill Amellio...



Vậy Apple đã làm gì để vượt qua thời kì khủng hoảng đó? Và tại sao cho đến bây giờ mặc dù có rất nhiều công ty muốn đi theo mô hình kinh doanh của Apple (hợp nhât phần cứng phần mềm, định vị thương hiệu cao cấp...) nhưng chưa một công ty nào đạt được sự thành công giống như Apple. Vậy Apple có “vũ khí bí mật” nào để tạo nên sự khác biệt ấy?

Du lịch Đà Nẵng trong những năm gần đây

Tính đến ngày 6/3/2013, theo Sở VH-TT-DL Đà Nẵng thì toàn TP có 138 đơn vị kinh doanh lữ hành và gần 400 khách sạn với 11.000 phòng (tăng gấp 3 lần so với năm 2008). Một trong những định hướng đang được Đà Nẵng hết sức chú trọng là phát triển du lịch và nghỉ dưỡng biển, du lịch công vụ kết hợp tổ chức sự kiện…

Trong 5 năm qua, lượng khách du lịch đến tham quan, du lịch tại Đà Nẵng đã tăng gấp 2 lần, từ 1,26 triệu khách năm 2008 tăng lên 2,65 triệu khách năm 2012. Thu nhập xã hội từ hoạt động du lịch năm 2012 đạt 6000 tỷ đồng, tăng gấp 3 lần so với năm 2008.

"Nhiều sự kiện văn hóa du lịch mang tầm cỡ quốc gia, quốc tế liên tục được tổ chức như Cuộc thi trình diễn pháo hoa quốc tế, Liên hoan Du lịch “Điểm hẹn mùa hè”, Cuộc thi Dù bay quốc tế, Chương trình âm nhạc đường phố… cùng các hoạt động quảng bá du lịch ngày càng chuyên nghiệp đã góp phần xây dựng, quảng bá và khẳng định thương hiệu Đà Nẵng – Thành phố đáng sống" - ông Ngô Quang Vinh nhấn mạnh.

Năm 2012, tổng lượt khách tham quan, du lịch đến Đà Nẵng ước đạt 2.831 nghìn lượt, vượt 9,3% so với kế hoạch, tăng 12% so với năm trước. Đây là mức tăng theo năm ít nhất so với mức tăng 36% trong năm 2010 và 34% trong năm 2011. Tuy nhiên, năm 2012, đáng lưu ý là doanh thu du lịch Đà Nẵng tăng trưởng đáng kể với 54,1% so với cùng năm trước. Điều này phần nào cho thấy sự cải thiện các hoạt động du lịch đã thu hút du khách và làm cho họ chi tiêu nhiều hơn cho các dịch vụ giải trí. Trong đó khách quốc tế ước đạt 675.684 lượt, tăng 26%, khách nội địa ước đạt 2.155.751 lượt, tăng 6% so với năm 2011. Tổng thu nhập từ hoạt động du lịch ước đạt 6.105 tỷ đồng, tăng 42% so với năm 2011 và vượt 20,77% so với kế hoạch. Năm 2012, khách du lịch quốc tế đến Đà Nẵng qua đường bộ ước đạt 34545 lượt khách, tăng 16,1% so với năm 2011; đón 49 chuyến tàu với 46453 lượt khách, tăng 11% so với năm 2011. Khách du lịch tàu biển tăng mạnh so với cùng kỳ năm ngoái chủ yếu do các hãng tàu lớn cập Cảng, với tần suất 01 chuyến/tuần; và còn có các chuyến tàu mới đưa khách đến tham quan thành phố.

6 tháng đầu năm 2013, ngành du lịch đạt mức tăng trưởng khá. Tổng lượng khách tham quan du lịch Đà Nẵng đạt 1,54 triệu lượt, tăng 16,3% so với cùng kỳ năm 2012, trong đó khách quốc tế ước đạt 389.400 lượt. Đặc biệt, lượng khách hàng không tăng cao đến 94,2% so với cùng kỳ năm ngoái. Phát biểu tại hội nghị, ông Trần Chí Cường, Phó Giám đốc Sở VHTTDL Đà Nẵng, cho biết sắp tới Sở sẽ triển khai nhiều hoạt động để khai thác nhiều hơn nữa tiềm năng du lịch ở địa phương như phát triển du lịch đường sông, tổ chức chương trình kích cầu du lịch, triển khai bình chọn các cơ sở du lịch đạt chuẩn, liên kết du lịch “3 địa phương 1 điểm đến”…
  
Đặc biệt, với việc đẩy mạnh thu hút du khách đến từ đường biển và hàng không, trong 6 tháng đầu năm, Thành phố đã đón 53 chuyến tàu biển du lịch cập cảng Tiên Sa với gần 60.000 lượt du khách, tăng 67,6% so với cùng kỳ 2012.

Các đường bay quốc tế từ Đà Nẵng đến Ôn Châu, Hồng Kông, Thành Đô (Trung Quốc)... mở rộng khai thác đưa lượng khách đến bằng đường hàng không tăng 94,2%, ước đạt 117.000 lượt.

Đến nay, Đà Nẵng có hơn 60 dự án đầu tư vào lĩnh vực du lịch với tổng vốn đầu tư 4.004,2 triệu USD, trong đó  có 13 dự án đầu tư nước ngoài và 47 dự án đầu tư trong nước.

Vấn đề quan trọng của ngành du lịch nguồn nhân lực du lịch còn thiếu và yếu. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do quy mô đào tạo chưa đủ lớn, ngành nghề đào tạo thiếu, phân bố cơ sở đào tạo chưa hợp lý, thiếu sự liên kết giữa các cơ sở đào tạo cũng như giữa các trường của Trung ương và địa phương. Riêng tại Đà Nẵng, dự tính đến năm 2015, ngành du lịch cần đến 20.000 lao động, đặc biệt là thiếu nguồn hướng dẫn viên du lịch tiếng hiếm. Vì vậy, nhiều đại biểu đề xuất ý kiến nên xây dựng chương trình đào tạo thống nhất ở các địa phương, đặc biệt quan tâm đào tạo ngoại ngữ cho sinh viên, đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ giảng dạy, liên kết hợp tác với các trường quốc tế để nâng cao chất lượng đào tạo…

Theo quy hoạch được phê duyệt, từ nay đến năm 2015, thành phố Đà Nẵng sẽ ưu tiên phát triển các ngành thương mại, dịch vụ, du lịch; đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn; phát triển theo 3 hướng chính:
  • Du lịch biển, nghỉ dưỡng và du lịch sinh thái,
  • Du lịch văn hóa, lịch sử, thắng cảnh, làng quê, làng nghề,
  • Du lịch công vụ, mua sắm, hội nghị, hội thảo.

Mục tiêu đến năm 2015 đón 4 triệu lượt khách, trong đó có 1 triệu khách quốc tế, với tổng số phòng khách sạn lên 21 ngàn phòng, trong đó hạng 4, 5 sao là 15.700 phòng.


Liên kết phát triển du lịch ba địa phương Quảng Nam - Đà Nẵng - Thừa Thiên Huế năm 2013.Các địa phương đã cùng nhau phối hợp, tổ chức thực hiện nhiều sự kiện, hoạt động tiêu biểu như: xuất bản tập gấp giới thiệu sự kiện văn hóa, du lịch 03 địa phương năm 2013 bằng ngôn ngữ Anh - Việt; tập gấp du lịch ba địa phương bằng tiếng Hàn; tham gia các sự kiện: hội chợ du lịch biển quốc tế Nha Trang -Việt Nam 2013 tại tỉnh Khánh Hòa; hội chợ du lịch quốc tế Việt Nam -VITM Hanoi 2013 tại Hà Nội; hội chợ Du lịch Quốc tế ITE 2013 tại thành phố Hồ Chí Minh; hội chợ du lịch quốc tế KOTFA 2013 tại Seoul, Hàn Quốc... 03 địa phương đã xây dựng chương trình giới thiệu du lịch thống nhất, đồng bộ để phục vụ quảng bá tại các sự kiện. Ngoài hoạt động quảng bá, xúc tiến du lịch thì công tác trao đổi thông tin trong quản lý, thanh kiểm tra các hoạt động du lịch, giải quyết một số vấn đề nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp du lịch cũng được triển khai thực hiện tốt.

Sưu tầm

Mời các bạn theo dõi các bài viết về du lịch Quảng Nam, Đà Nẵng tại đây:


Thứ Năm, 25 tháng 2, 2016

Hệ thống Molly’s Coffee - Đà Nẵng

Đầu năm 2012, kể từ sự ra đời của cửa hàng đầu tiên tại 248 Nguyễn Hữu Thọ, Đà Nẵng, chuỗi cửa hàng Molly’s Coffee với mô hình tự phục vụ và mua mang về cùng không gian trẻ trung, thoáng mát; phong cách phục vụ nhanh chóng; thực đơn đa dạng phong phú phù hợp với từng vùng miền, cùng nhiều tiện ích gia tăng; giá thành rẻ hiện đang là điểm đến lý tưởng dành cho giới trẻ.

Hệ thống Molly's Coffee đã và đang phát triển mạnh mẽ

Molly’s Coffee được phát triển bởi công ty TNHH ĐẤT MỘNG (89 Thái Phiên - Hải Châu - Đà Nẵng):           

Chủ tịch HĐQT - Ông Morii Takayuki

Giám đốc - Bà Nguyễn Thị Thanh Bình

Phó giám đốc - Ông Kosuke Syuri


Với tham vọng phát triển với hơn 100 cửa hàng trải khắp cả nước trong vòng 3 năm, với cam kết phát triển bền vừng và lâu dài tại Việt Nam, Molly’s Coffee luôn đặt chữ tín làm đầu, luôn luôn hoàn thiện 4 tiêu chuẩn: Nhanh - Ngon - Rẻ - Đẹp nhằm cung cấp những sản phẩm chất lượng cao và dịch vụ bán hàng hoàn hảo nhằm mang lại sự hài lòng cao nhất cho khách hàng, cũng như có những đóng góp thiết thực cho xã hội.

Theo Công ty TNHH Dream Land ( Đất Mộng )

Thứ Tư, 24 tháng 2, 2016

Chiến lược kinh doanh của KFC tại Việt Nam phần 4

Xác định đối thủ cạnh tranh:
Khi xâm nhập thị trường thì KFC tất nhiên sẽ phải đối mặt với các đối thủ cạnh tranh.Đối thủ cạnh tranh có thể là các sản phẩm truyền thống như phở 24,sản phẩm ăn nhanh khác (BBQ chicken,lotteria…)hay là đối thủ tiềm ẩn như Macdonald (hiện tại thì Macdonald chưa vào Việt Nam).KFC xác định đối thủ của mình từ đó đưa ra chiến lược phát triển thương hiệu một cách dần dần,từ từ tạo ra sự tin tưởng từ khách hàng đặc biệt qua chất lượng của sản phẩm.Song do là sản phẩm mang phong cách hiện đại nên khi vào Việt Nam thì KFC đã gặp nhiều khó khăn trong việc đưa sản phẩm của mình đến người tiêu dùng mặc dù cơ hội thị trường rất lớn.
Nhận thức của người tiêu dùng về các đối thủ cạnh tranh:
Đánh giá nhận thức của người tiêu dùng về các đối thủ cạnh tranh chính là đánh giá sự hiểu biết về các thông tin của đối thủ cạnh tranh.Việc đánh giá này thông qua các tiêu chí mà KFC đặt ra,và để thực hiện được điều đó thì việc nghiên cứu thông tin từ thị trường là rất cần thiết.Nghiên cứu thông tin thị trường bằng các công cụ như là:Bảng câu hỏi điều tra,sử dụng các tài liệu thứ cấp…
Đánh giá vị trí của các đối thủ cạnh tranh:
Từ việc nghiên cứu thông tin từ thị trường sẽ đưa lại những kết quả giúp cho KFC có thể xác định được thị phần của mình cũng như của đối thủ cạnh tranh,biết được nguyên nhân người tiêu dùng không sử dụng sản phẩm của mình mà lại sử dụng sản phẩm của đối thủ cạnh tranh…từ đây để có những đánh giá chính xác vị trí của các đối thủ cạnh tranh.Hiện tại thì Lotteria chính là đối thủ tiêu biểu đe dọa đến thị phần của KFC.Bên cạnh đó các thương hiệu Việt (phở 24) cũng là những đối thủ của KFC.Còn đối với Macdonald thì có thể do thị trường chưa đủ hấp dẫn với “ông lớn” này.Nhưng không sớm thì muộn KFC cũng sẽ phải đối mặt với đối thủ lớn này tại thị trường Việt Nam.
Phân tích ưa chuộng của người tiêu dùng:
Qua số liệu nghiên cứu (thu thập được) thì KFC là sản phẩm được sử dụng nhiều nhất bởi nhóm  học sinh,sinh viên là 78%,và với những người có thu nhập dưới 1 triệu đồng là 49%.Điều đó chứng tỏ giới trẻ là người tiêu dùng chính của các sản phẩm KFC và những người có thu nhập không cao lại là khách hàng chính của KFC.Cũng thông qua kết quả thu thập được thì nếu không mua sản phẩm KFC thì lotteria chiếm tới 45% niềm tin từ khách hàng từ đó để thấy được lotteria chính là đối thủ chính của KFC.
Ra quyết định:
KFC đã chọn cho mình hướng đi riêng phù hợp với ẩm thực của người Việt như là cho ra các sản phẩm mới như:bánh mì mềm,bắp cải chộn jumbo…KFC khẳng định chất lượng sản phẩm của mình bằng các chứng nhận kiểm dịch.Không những thế các sản phẩm của KFC còn tạo sự khác biệt với các sản phẩm khác bằng sự pha chộn 11 loại gia vị khác nhau chính điều đó tạo ra sự khác biệt cho các sản phẩm của KFC…thể hiện rất rõ trong chiến lược sản phẩm của KFC.
Giám sát thực hiện chiến lược:
Quá trình này để đảm bảo cho chiến lược định vị của KFC luôn đi đúng hướng,mục tiêu đề ra.Đồng thời phát hiện những sai sót,nhầm lẫn để có thể có các biện pháp khắc phục kip thời…
 Sưu tầm (còn nữa)




Chiến lược kinh doanh của KFC tại Việt Nam phần 3

Lựa chọn thị trường mục tiêu
Thời gian vừa qua sự bùng nổ về nhu cầu đã tạo nên một làn sóng phát triển mạnh mẽ ở các lĩnh vực dịch vụ. Đặc biệt là ở mảng thức ăn nhanh, người tiêu dùng ngày càng tìm đến những nhãn hiệu tòan cầu quen thuộc hơn là đến những quán ăn thông thường khác.
Lựa chọn thị trường mục tiêu tại Việt Nam của KFC
Hiện nay, KFC ngày càng phát triển tại nhiều quốc gia trên thế giới. Điển hình tại Malaysia, cửa hàng KFC đầu tiên đã được mở tại Jalan Tuanku Abdul Rahman. Nếu như năm 1998 mới chỉ có 225 cửa hàng KFC thì ngày nay món gà mang hương vị tuyệt vời này đồng nghĩa với tên KFC và được người dân Malaixia đặc biệt yêu thích.
Còn tại Việt Nam, KFC đã dành ra bảy năm để xây dựng thị trường (chịu lỗ tới bảy năm) và bắt đầu có lãi từ năm ngoái, bây giờ bắt đầu là thời điểm gặt hái kết quả. Thị trường Việt Nam-một thị trường mới với 17 nhà hàng so với hơn 34.00 nhà hàng nằm trong chuỗi KFC trên toàn thế giới. Trong giai đoạn đầu, KFC chấp nhận đầu tư để phát triển thương hiệu, xây dựng hệ thống nhà hàng, thực hiện các chương trình tiếp thị để gây dựng khách hàng cho mình trong tương lai. Năm ngoái, hoạt động kinh doanh của chuỗi cửa hàng KFC khá thành công với doanh số bán hàng tăng khoảng 80%. Theo đánh giá của tập đoàn Yum Restaurant International, Việt Nam là thị trường mới và đang có nhiều cơ hội để phát triển mạnh. Hiện nay, KFC đã trở thành thương hiệu thức ăn nhanh được biết đến nhiều ở thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và ở Việt Nam nói chung. Số lượng khách hàng làm quen và chấp nhận loại thực phẩm này càng nhiều.
KFC với mục tiêu thị trường nhằm vào giới trẻ thì thị trường Việt Nam được đánh giá là một thị trường triển vọng. Một nửa dân số Việt Nam có độ tuổi dưới 30, nghĩa là giới trẻ sẽ dễ chấp nhận sản phẩm thức ăn nhanh của KFC hơn người lớn tuổi. Tuy nhiên, trong giới trẻ, KFC Việt Nam đặc biệt hướng sự quan tâm vào trẻ em thông qua chương trình tiếp thị dành riêng cho nhóm khách hàng nhiều triển vọng này. Mục tiêu của KFC là muốn thương hiệu của KFC trở thành bạn đồng hành của khách hàng tiềm năng ngay từ khi còn nhỏ. Với mục tiêu xây dựng lòng tin nơi khách hàng thông qua chất lượng, uy tín và an toàn vệ sinh thực phẩm, KFC Việt Nam chỉ chọn những nhà cung cấp nguyên liệu uy tín và đảm bảo chất lượng, ví dụ như CP Việt Nam. Tất cả nguyên liệu sử dụng đều phải có chứng nhận kiểm dịch của cơ quan chức nămg. Việc lựa chọn thị trường mục tiêu của KFC là hoàn toàn chính xác. Trong khi fast food ở nước ngoài được coi là sản phẩm của ngành công nghiệp, nhiều công ty không cần đến mặt bằng quá lớn để kinh doanh, khách hàng chủ yếu mua về. Song ở Việt Nam, người dân chưa quen với cách kinh doanh này, do đó fast food Việt Nam vẫn mang tính chất nhà hàng nhưng được phục vụ nhanh.Do vậy tính chất phổ biến của KFC còn có những hạn chế (do thu nhập người Việt Nam còn thấp,sự cạnh tranh từ các sản phẩm truyền thống,thói quen tiêu dùng…),việc xây dựng một hệ thống cửa hàng với sự định vị khác biệt với các cửa hàng truyền thống(trong đó lấy mầu đỏ làm chủ đạo) thì KFC đã tạo ra một trào lưu mới trong cách tiêu dùng của người dân Việt Nam.Trong khi thói quen tiết kiệm vẫn là quan điểm của những người có độ tuổi trên 30 thì với giới trẻ (độ tuổi<30) thì KFC đã nhận được những phản hồi tích cực.Sự tiếp nhận tương đối dễ dàng dần dần đã trở thành trào lưu mới,xu hướng mới,một xu hướng tây hóa phù hợp với sự năng động của giới trẻ.KFC cũng tạo ra một không gian mới mẻ nơi mà có thể trò chuyện,bàn bạc công việc…
Chính vì vậy mà sản phẩm KFC ngày càng được nhiều người biết đến,đây là điều kiện để KFC phát triển hệ thống cửa hàng của mình thêm nữa cụ thể là: trong bốn năm tới là phát triển mạng lưới nhà hàng KFC tăng gấp sáu lần, 100 nhà hàng. Còn sau tám năm nữa (vào năm 2014), số nhà hàng của KFC có thể nhiều gấp 9-10 lần hiện nay. Với việc phát triển tại các thành phố lớn như thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội...


Sưu tầm (Còn nữa)

Mời các bạn theo dõi: 


Chiến lược kinh doanh của KFC tại Việt Nam phần 2

Phân đoạn thị trường. 

Để xác định được đâu là khách hàng mục tiêu, chúng ta cùng phân tích các phân đoạn thị trường của KFC qua bài viết dưới đây nhé. 

1. Phân đoạn thị trường theo vị trí địa lý:

Chủ yếu tập trung vào những Thành phố lớn, tập trung đông dân như Hà Nội, TP.HCM, Đà Nẵng, Hải Phòng…Trong đó KFC đã lựa chọn cho mình 2 thị trường điểm là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.Năm 1998 thì KFC đã có mặt tại thành phố Hồ Chí Minh nhưng phải mãi đến tận năm 2006 thì KFC mới phát triển hệ thống các của hàng của mình ra Hà Nội.KFC đã không phát triển một cách ồ ạt hệ thống các của hàng mà với mục đích phát triển lâu dài trên thị trường Việt Nam thì KFC tiến hành sự mở rộng một cách vững chắc.

2. Phân đoạn thị trường theo nhân khẩu học:

Trong phần này sẽ đề cập đến 3 khía cạnh là lứa tuổi, thu nhập và nghề nghiệp:

+ Lứa tuổi: KFC chủ yếu nhắm vào giới trẻ từ 17 đến 29 tuổi, gia đình có trẻ em.Do nhiều nguyên nhân mà KFC đã chọn thị trường là giới trẻ với độ tuổi dưới 30.Với việc xác định thị trường thì KFC chủ yếu đánh vào xu hướng năng động,khả năng tiếp cận văn hóa nhanh của các bạn trẻ Việt Nam.Ngoài ra KFC cũng đặc biệt quan tâm đến trẻ em,có thể nói họ tác động vào nhận thức của các em ngay từ khi các em còn nhỏ.

+ Thu nhập: Việt Nam là nước có thu nhập đầu người thấp vì vậy đây cũng là một khó khăn của KFC khi xâm nhập vào thị trường Việt Nam.Những người có thu nhập khá, ổn định chính là đoạn thị trường mà KFC chú trọng.Với những người có thu nhập khá thì việc sử dụng sản phẩm có thể thường xuyên song những người có thu nhập thấp cũng có thể trở thành khách hàng của KFC nhưng mức độ sử dụng sản phẩm có thể không thường xuyên.

+ Nghề nghiệp: Việc chọn 2 thành phố chính là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh thì KFC có thể tiếp xúc một thị trường lớn là:Học sinh, sinh viên, bạn trẻ làm việc ở khu vực trung tâm Thành phố.Vì số lượng các trường đại học,cao đẳng,dạy nghề…ở đây là rất nhiều.Và điều đó cũng phù hợp với định hướng của KFC.

3. Phân đoạn thị trường theo tâm lý:
Việt Nam là một nước phát triển nhanh trong thời gian qua.Việc phát triển theo nền kinh tế thị trường đã kéo theo những phong cách sống mới,những xu hướng mới đặc biệt những xu hướng,phong cách sống này được các bạn trẻ tiếp thu rất nhanh.Điều đó giúp cho KFC có cơ sở tin vào sự thành công của mình khi đặt chân vào thị trường Việt Nam.

4. Phân đoạn thị trường theo hành vi:

Tiến hành một cuộc điều tra bỏ túi về nguyên nhân phát triển quá nhanh của Lotteria và KFC, câu trả lời từ hầu hết các thực khách trong độ tuổi từ 17-29 là: tiện lợi, ngon, giá cả phải chăng, trong đó khâu phục vụ được coi là chuẩn nhất.Chính vì vậy mà KFC đã thể hiện một phong cách chuyên nghiệp không chỉ trong đội ngũ nhân viên,hệ thống các của hàng tương đối dày đặc mà còn là điều hành một loạt các của hàng với sự tiện lợi nhất cho khách hàng sử dụng sản phẩm KFC.

Sưu tầm (còn nữa)

Mời các bạn cùng theo dõi bài viết phần một tại đây